Thứ 2, 16/06/2025, 03:35[GMT+7]

Thái Bình với phong trào Bãi Sậy ở Hưng Yên

Chủ nhật, 15/06/2025 | 16:57:01
1,041 lượt xem
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, kể từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, các tầng lớp nhân dân Thái Bình đã nối tiếp nhau quật cường chống Pháp bằng nhiều hình thức khác nhau ở các tỉnh, thành cả nước và trên đất Thái Bình. Trong các thủ lĩnh phong trào vũ trang chống Pháp ở Thái Bình thì dân gian còn lưu truyền là “thứ nhất Đề Hiện Quang Lang”.

Di tích Văn chỉ Bình Dân, nơi tế cờ và khởi binh cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Theo cand.com.vn

Có thể kể đến danh tính của các vị văn thân, sĩ phu yêu nước ở Thái Bình gắn với các sự kiện trọng yếu của lịch sử quốc gia như: ngay sau khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam (1858) như: Tiến sĩ Phạm Thế Hiển quê làng Luyến Khuyết (Thái Thụy) được cử giữ chức Tham tán binh nhung đại thần đã cùng Nguyễn Tri Phương kiên trì chủ chiến, tử thủ giữ thành Gia Định. Khi quân Pháp tiến đánh ra Bắc kỳ lần thứ nhất có Nguyễn Hữu Bản là con trai nhà văn thân yêu nước Nguyễn Mậu Kiến quê làng Động Trung (Kiến Xương) tử thủ giữ thành Nam Định. Khi quân Pháp tiến đánh Bắc kỳ lần thứ hai (1883) có Đình nguyên Hoàng giáp Nguyễn Quang Bích quê làng Trình Phố (Tiền Hải), Tuần phủ Hưng Hóa đã bất chấp lệnh bãi binh, bền gan lập căn cứ kháng Pháp tại sơn phòng Hưng Hóa. Khi vua Hàm Nghi hạ chiếu cần vương (tháng 7/1885) đã phong Nguyễn Quang Bích làm Thượng thư bộ Lễ sung Hiệp thống quân vụ Bắc kỳ và trở thành thủ lĩnh cần vương số một của Bắc kỳ, đồng thời vua Hàm Nghi đã phong cho Tạ Hiện chức Đô thống Bắc kỳ quân vụ đại thần kiêm Đề đốc Định - An (Nam Định - Hưng Yên). 

Với những cương vị là Hiệp thống quân vụ đại thần Bắc kỳ và là thủ lĩnh của phong trào vũ trang cần vương đang có ảnh hưởng lớn ở các tỉnh phía Bắc, Nguyễn Quang Bích được triều đình ủy thác cho sứ mệnh toàn quyền ban phong các sắc chỉ, định danh cho các thủ lĩnh kháng Pháp ở Bắc kỳ để họ có vị thế triển khai tập hợp và mở rộng lực lượng. 

Với cương vị Đô thống quân vụ đại thần Bắc kỳ, lại đích thân làm thủ lĩnh một phong trào vũ trang kháng Pháp trên địa bàn rộng lớn ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, Tạ Hiện giữ vai trò chỉ đạo, liên kết các phong trào vũ trang kháng Pháp ở Bắc kỳ, trong đó Tạ Hiện là một nhân vật có vai trò thiết yếu tạo lập và điều hành sự liên kết giữa các phong trào kháng Pháp ở các vùng miền, trong đó có phong trào ở Thái Bình liên kết với phong trào Bãi Sậy ở Hưng Yên. Thực tế lịch sử đã cho thấy hầu hết các phong trào kháng Pháp ở các tỉnh phía Nam đồng bằng Bắc Bộ có quan hệ với phong trào Bãi Sậy đều trực tiếp hoặc gián tiếp do Tạ Hiện cùng Nguyễn Thiện Thuật thiết lập nên. 

Tạ Hiện quê làng Quang Lang, nay thuộc xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy. Năm 18 tuổi đăng lính, vài năm sau thi đậu Tú tài võ và bắt đầu sự nghiệp bằng chức Hành tẩu, rồi bằng năng lực của mình mà lần lượt được thăng dần các chức thuộc ngạch võ tới Đề đốc Bắc Ninh. 

Ngày 27/3/1883, thành Nam Định thất thủ, khi đó Tạ Hiện đang là một võ quan trong triều đình Huế đã làm tờ tâu xin về quê tập hợp thân hào, chiêu mộ thủ dũng lấy lại thành để báo đền ơn nước. Triều đình Tự Đức đã chuẩn y tờ tâu và cử Tạ Hiện giữ chức Đề đốc Định - An (Nam Định - Hưng Yên) thay cho Lê Văn Điếm đã tử trận. 

Nghe tin Tạ Hiện về nhận chức Đề đốc Định - An triển khai kế sách lấy lại thành Nam, nhiều sĩ phu, thân hào trong vùng đã đưa dân binh đến hợp sức. Tạ Hiện đã lập căn cứ tại làng An Điện, nay thuộc xã Đồng Thanh, huyện Vũ Thư, nằm kề ngã ba sông Hồng và sông Trà Lý, nơi “con gà gáy ba tỉnh nghe thấy”, rất thuận tiện cho việc giao lưu, liên hệ với các tỉnh. Với cương vị Đề đốc, Tạ Hiện đã khôn khéo tập hợp các lực lượng yêu nước ở Định - An và các tỉnh lân cận để liên kết cùng xây dựng các căn cứ kháng Pháp mà trước mắt là gấp rút tập hợp lực lượng để tiến đánh lấy lại thành Nam Định. 

Đầu tháng 6/1883, Tạ Hiện đã chỉ huy lực lượng nghĩa quân đông tới vài ngàn người chia làm bốn cánh tiến công đánh thành Nam Định, tuy chưa lấy lại được thành nhưng bọn giặc chiếm đóng thành đã chịu tổn thất nặng nề. Sau trận này, khí thế chống Pháp ở Định - An thêm sục sôi, nhưng do sức ép của Pháp nên triều đình Huế đã ra chỉ dụ phải rút bỏ hương dũng, triệt binh trên toàn cõi Bắc kỳ. Với cương vị Đề đốc, Tạ Hiện bề ngoài thì ra lệnh cho các đạo quân án binh nhưng bên trong thì ngầm chỉ huy các địa phương củng cố thế trận, nhất là ở những nơi xung yếu. Nhận thức rõ triều đình mà ông phụng sự đang ngày thêm một yếu hèn, không còn đáng là chỗ dựa để thực thi hoài bão đánh đuổi quân xâm lược Pháp nên Tạ Hiện đã nộp ấn từ quan vào tháng 12/1883 cho dễ bề hoạt động. 

Việc treo ấn từ quan của Tạ Hiện đã nêu một tấm gương cho nhiều văn thân, sĩ phu noi theo. Vào thời điểm này, Tạ Hiện thường có các cuộc tiếp xúc với Đinh Gia Quế, Nguyễn Thiện Thuật và các tướng lĩnh khác của phong trào Bãi Sậy để bàn bạc thống nhất chủ trương mở rộng địa bàn hoạt động, đồng thời đã cử người liên hệ với quân Thanh đang đóng ở miền thượng du xin viện trợ súng ống, đạn dược. Các căn cứ: Hoàng Nông của Bang Tốn, Động Trung của Án Kiến, Phủ Gạch của Ngự sử Phạm Huy Quang, Đô Kỳ của Đốc Nhưỡng, Thọ Vực của Lãnh Hoan, Phan Bổng của Nguyễn Thành… đã ra đời vào thời điểm đó. 

Nhằm thống nhất hơn nữa việc chống Pháp ở các tỉnh Định - An, Hải Dương, Bắc Ninh… Đề Hiện đã ngầm gặp những người kiên quyết chủ chiến như Tán tương Nguyễn Thiện Thuật, Tán lý Nguyễn Cao, Đốc học Ngô Quang Huy… bàn bạc để lập ra tổ chức “Bình Tây đại nghĩa đoàn” và tiếp tục mở rộng địa bàn hoạt động tới các tỉnh trung du, thượng du Bắc kỳ. 

Cuối tháng 6/1884, Tạ Hiện đã cùng Nguyễn Thiện Thuật, Phạm Huy Quang và một số yếu nhân khác đưa quân lên tận Lạng Sơn phối hợp với quân Cờ Đen và lực lượng kháng chiến tại chỗ đập tan cuộc tấn công của một binh đoàn Pháp lập nên chiến công đánh bại quân Pháp ở cầu Quan Âm và thu phục được đồn Bắc Lệ. Chiến công này là một trong những dấu son ghi nhận sự lan tỏa và ảnh hưởng của mối liên kết giữa phong trào Bãi Sậy với các phong trào kháng Pháp ở Thái Bình với phong trào kháng Pháp trong cả nước trước khi có chiếu cần vương, trong đó có vai trò trọng yếu của Tạ Hiện. 

Chính vì tài năng, nhiệt huyết và uy danh của Tạ Hiện nên khi vua Hàm Nghi hạ chiếu cần vương đã phong cho ông chức Đô thống Bắc kỳ quân vụ đại thần kiêm Đề đốc Định - An. Với chính danh của cương vị được giao, Tạ Hiện đã dốc hết tâm lực để giữ vai trò đầu mối của sự liên kết giữa các phong trào và cũng chính từ thời điểm này, vai trò điều phối của Tạ Hiện trong mối quan hệ giữa Bãi Sậy với các phong trào kháng Pháp khác ở Bắc kỳ, trong đó có Thái Bình thêm cụ thể hơn. Đến cuối năm 1885, phong trào kháng Pháp ở Định - An đã bùng lên đều khắp. 

Thấy rõ nguy cơ từ các phong trào vũ trang cần vương nổi lên đồng loạt ở Bắc kỳ, thực dân Pháp phải tập hợp lực lượng càn quét, đánh dẹp. Trong vòng hơn một năm, từ cuối năm 1885 đến đầu năm 1887, quân Pháp đã dùng nhiều binh đoàn thiện chiến trà đi sát lại, đánh phá vào các căn cứ kháng Pháp ở Thái Bình. Trong tình thế đó vai trò Đô thống Bắc kỳ quân vụ đại thần kiêm Đề đốc Định - An của Tạ Hiện càng nổi bật hơn. Ông đã cùng ba con trai của mình là Cả Hổ, Hai Hùm, Ba Beo chia nhau đi kết hợp với thủ lĩnh của phong trào ở nhiều nơi để triển khai những trận chiến khôn lường. 

Từ khi vua Hàm Nghi bị bắt vào năm 1888 trở đi, các phong trào vũ trang cần vương chống Pháp trên phạm vi cả nước lần lượt bị lắng xuống. Các căn cứ chống Pháp trên địa bàn Định - An cũng bị co hẹp dần nhưng khí thế chống Pháp thì vẫn ngầm sôi sục trong giới sĩ phu, văn thân và các tầng lớp nhân dân ở khắp các địa phương. Trong bối cảnh đó, ngày 21/3/1890, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Thái Bình. Trong một báo cáo gửi về bộ Thuộc địa Pháp về việc thành lập tỉnh Thái Bình, viên Toàn quyền Đông Dương đã lý giải: “Dân vùng này ngoan ngạnh, khó trị, phải thành lập một tỉnh riêng để cử quan công sứ cai trị”. 

Tìm hiểu vai trò của Tạ Hiện trong mối quan hệ tương tác giữa trung tâm kháng pháp Bãi Sậy với các phong trào kháng Pháp ở Định - An và duyên cớ thành lập tỉnh Thái Bình là do “dân vùng này ngoan ngạnh khó trị”, có thể thấy một điều khá lý thú là cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy cũng như những phong trào cần vương yêu nước khác đồng thời diễn ra đáng được xem là sự góp thêm những giọt nước làm tràn ly để dẫn tới việc ra đời một tỉnh mới mang tên Thái Bình.

Nguyễn Thanh

(Vũ Quý, Kiến Xương)

Tin cùng chuyên mục

Xem tin theo ngày